Thời đại hiện nay là thời đại của
khoa học. Phương pháp giáo dục Phật giáo, nếu đi ngược lại tinh thần khoa học,
nhất định sẽ kém hiệu quả, thậm chí đem lại hậu quả ngược với ý muốn. Nghĩa là
tuyên truyền đạo Phật mà trở lại phản tuyên truyền đạo Phật.
Trường Tung câp
Phật Học Khánh Hòa, được thành lập năm 1990, do Hòa thượng Thích Trí Tâm- Phó
Trưởng Ban Thường trực BTS GHPGVN tỉnh Khánh Hòa làm Hiệu trưởng từ niên khóa
1990 đến niên khóa 2010, Hòa thượng Thích Minh Thông, Phó Trưởng BTS – Trưởng
Ban Giáo dục Tăng Ni GHPGVN tỉnh Khánh Hòa làm Hiệu trưởng từ niên khóa 2010
đến nay. Nhìn lại quá trình xây dựng và phát triển Trường Trung câp Phật Học
Khánh Hòa sau một phần tư thế kỷ. Trường đã đào tạo 6 khóa Trung cấp Phật
học và hiện đang dào tạo khóa VII niên khóa 2013-2016 và … khóa Sơ cấp
Phật học với số lượng …. Tăng Ni sinh.
Mặc dù điều kiện
cơ sở vật chất nhà trường còn khiêm tốn, nhưng với nỗ lực vì sự nghiệp giáo dục
Tăng Ni nên Hòa thượng Hiệu trưởng và tập thể Ban Giám hiệu nhà trường đã nỗ
lực để hoàn thành trọng trách người lái đò thầm lặng cho bao thế hệ Tăng Ni
sinh được chắp cánh, thực hiện những ước mơ và hoài bão vượt khỏi bến mê quay
về bờ giác…
I.- Thực trạng trường Trung cấp Phật học Khánh Hòa:
1.1- Trước hết là
cơ sở vật chất: Bởi vì cơ sở vật chất là tiền đề dẫn đến thành công. Mặc dù đã
có nhiều cố gắng nhưng cơ sở vật chất để Tăng sinh cộng trú trong tinh thần lục
hòa cộng trụ tuy có nhưng còn quá khiêm tốn. Khoảng không gian sinh hoạt, thể
dục thể thao, thư giãn giữa các giờ học, cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy thật
khiêm nhường nên đã ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy của giáo thọ và phát
triển tư duy của Tăng Ni sinh.
2.1- Tiếp theo là
con người: Điều đáng quan tâm nhất đối với cơ sở giáo dục là người Thầy. Dù
sách giáo khoa có tốt, nội dung có hay nhưng phương pháp lên lớp của giáo thọ
còn có chỗ băn khoăn thì đó là điều suy ngẩm…
3.1- Nói về người
học: Nhìn chung Tăng Ni sinh tuyển vào Trung cấp Phật học là đúng đối tượng, có
mục đích, lý tưởng, có ý thức phấn đấu. Tuy nhiên vẫn còn những hạt sạn nhỏ về
chất lượng đầu vào, vì thế chất lượng Tăng Ni sinh không đồng đều, trong một
lớp có khá nhiều trình độ, điều này cũng ảnh hưởng đến sản phẩm đào tạo.
Nhìn lại những
thành tựu đạt được của Trường Trung câp Phật học Khánh Hòa trong 25 năm qua
chúng ta có thể tự hào, trong hoàn cảnh và thực trạng, điều kiện con
người, cơ sở vật chất, nhưng có thể nói Tăng Ni sinh Trường TCPH Khánh Hòa khi
ra trường thi vào Học viện, theo học các cấp cao hơn có thể là một trong những
đơn vị lá cờ đầu trong hệ thống giáo dục đào tạo Phật học.
Từ việc những năm
đầu nhà trường phải học tạm tại Tổ đình Nghĩa Phương, Tăng sinh tạm trú tại
chùa Linh Sơn Pháp Bảo cho đến khi về địa chỉ mới Trường Trung cấp
Phật học Khánh Hòa số 20, đường 23/10, phường Phương Sơn, thành phố Nha Trang
như hiện nay là cả một nỗ lực rất đáng trân trọng dưới sự lãnh đạo, điều hành
của Ban Trị sự GHPGVN tỉnh Khánh Hòa và đặc biệt là nhị vị Hiệu trưởng tập thể
Ban Giám hiệu và sự nhiệt tình giảng dạy của giáo thọ cùng sự phấn đấu học tập
của Tăng Ni sinh các khóa.
2. Những
giải pháp:
1.2-
Để đáp ứng phát triển cơ sở vật chất của Trường Trung Cấp Phật Học Khánh Hòa
xin tha thiết đề nghị các cấp lãnh đạo tạo mọi điều kiện thuận lợi để
trường Trung cấp Phật Học Khánh Hòa được sử dụng cơ sở hiện nay của Trường THCS
Phan Sào Nam mà trước đây là Trường Trung học Bồ Đề nhằm tạo môi trường sư phạm
dể Trường ra trường, lớp ra lớp…
2.2- Mở
rộng đội ngũ làm công tác giáo dục Phật giáo: Hiện nay, giáo thọ Trường Trung cấp Phật học Khánh Hòa
đa số là Tăng Ni. Điều này là đúng, vì lớp người đi trước rất cần tấn dẫn hậu
lai, báo Phật ân đức. Thế nhưng đội ngũ giáo thọ phải là người có tài và
có đức. Vì đây là nhà trường đào tạo Tăng tài những con người làm nhiệm vụ
hoằng dương đạo pháp cho tương lai..
Giáo thọ
không kể là xuất gia hay tại gia, một khi đã tin vào chân lý của những
giá trị triết lý đạo đức của đạo Phật và sống theo đúng những giá trị đó, đều
có thể trở thành những nhà giáo dục Phật giáo…
Ngược dòng lịch
sử, Trần Thái Tông, một ông vua Phật tử của đời Trần, đã viết trong Khóa Hư Lục
rằng: “Mặc vấn đại ẩn tiểu ẩn, hưu biệt xuất gia tại gia, bất câu Tăng tục, chỉ
yếu biện tâm, bổn vô nam nữ, hà tu trước tướng”. (Không phân biệt là sống giữa
đời hay sống ẩn dật trong rừng núi, không phân biệt là người tại gia hay xuất
gia. Tăng hay tục chỉ cốt biện tâm. Vốn không nam nữ, sao lại còn chấp tướng?)
Có thể nói đạo ý
bình đẳng của Phật không có phân biệt đối đãi xuất gia và tại gia, nam và nữ,
già và trẻ. Tất cả mọi người đều có mầm giác ngộ sẵn có ở trong mình, tức Phật
tánh, cho nên đều có thể thành Phật. Đạo lý bình đẳng này thấy rõ trong Kinh
Đại Thừa như Kinh Duy Ma Cật, Kinh Thắng Man đã được dịch ra tiếng Việt. Duy Ma
Cật là một Trưởng lão có gia đình, nhưng trình độ giác ngộ của ông ngang với Bồ
Tát Văn Thù. Phu nhân Thắng Ma cũng có một vị trí cao tương tự. Trong Kinh Pháp
Hoa ở phẩm 26, một Long Nữ mới 8 tuổi, nhờ nghe Ngài Văn Thù thuyết pháp mà trở
thành Đại Bồ Tát, và trong nháy mắt dùng thần thông biến ngay thành nam giới
rồi thành Phật.
Phật giáo Việt Nam
đã từng có Ni sư Diệu Nhân đời Lý là một Thiền sư nổi tiếng thuộc dòng Thiền Tỳ
Ny Đa Lưu Chi, có Trần Thái Tông và Tuệ Trung Thượng Sĩ đều là những cư sĩ và
là nhà Phật học xuất sắc đời Trần. Học trò của hai vị này gồm cả Tăng sĩ và cư
sĩ. Một học trò xuất sắc của Tuệ Trung chính là Trần Nhân Tông, là Tổ thứ nhất
của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần. Một học trò thứ hai của Tuệ Trung là Pháp
Loa, là vị Tổ thứ hai của Thiền phái Trúc Lâm và là người đứng ra san định bản
thảo Tuệ Trung Thượng Sĩ Ngữ Lục, đã được cư sĩ Trúc Thiên dịch ra Việt văn.
Trong thời hiện đại, chúng ta có cư sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, là một nhà Phật
học lớn, nhiều Tăng sĩ vốn là học trò của ông, nay giữ nhiều vị trí chủ chốt
trong Giáo hội Phật Giáo Việt Nam.
Ở các nước Phật
giáo nào cũng vậy, cư sĩ bao giờ cũng chiếm số đông, lại là người có kiến thức
phổ thông khá rộng, nếu họ có thêm kiến thức nội điển thì cư sĩ sẽ trở
thành những nhà giáo dục Phật giáo, những nhà truyền giáo rất tốt, rất có hiệu
quả. Như thế, cần mở rộng vòng tay, thân thiện, thu hút rộng rãi tầng lớp cư sĩ
vào đội ngũ giáo dục Phật giáo. Đó là một trong những biện pháp cơ bản để rút
ngắn khoảng cách giữa đạo Phật truyền thống và đạo Phật trong thực tế,
trong đời sống hiện nay.
3.2-
Giáo dục về tinh thần và phương pháp nghiên cứu khoa học, đề cao tính lý trí
trong giáo dục Phật giáo.
Thời đại hiện nay
là thời đại của khoa học. Phương pháp giáo dục Phật giáo, nếu đi ngược lại tinh
thần khoa học, nhất định sẽ kém hiệu quả, thậm chí đem lại hậu quả ngược với ý
muốn. Nghĩa là tuyên truyền đạo Phật mà trở lại phản tuyên truyền đạo Phật.
Nhà bác học
Einstein nói: “Tôn giáo mà không có khoa học sẽ là tôn giáo mù, khoa học mà
không có tôn giáo thì sẽ là khoa học què”.
4.2- Hãy áp dung
phượng pháp giảng dạy lấy người học làm trung tâm. Giáo thọ cần biết người học
cần gì, nên phải giảng dạy như thế nào. Không nên xem người học như cái bình
chứa, giáo thọ cứ đổ vào mà không cần biết Tăng Ni sinh có tiệp nhận, tiêu hóa
được không? Hãy để cho Tăng Ni sinh được học, được khám phá và tích cực tiếp
thu kiến thức mới, đừng bắt Tăng Ni sinh bị học…
Hiện nay, việc tìm
kiếm một phương pháp giảng dạy mới để nâng cao chất lượng giáo dục tại Việt Nam
đang là điều trăn trở của những ai quan tâm đến sự nghiệp trồng người - từ các
cơ quan quản lý giáo dục, lãnh đạo các trường đến các giảng viên trực tiếp đứng
lớp…
Nói tóm lại, theo
các nhà nghiên cứu phương pháp giảng dạy hiện nay chưa có một phương pháp giảng
dạy hiện đại nào là vạn năng có thể thay thế hoàn toàn phương pháp truyền thống
– phương pháp thuyết trình – cho dù phương pháp này vẫn tồn tại nhiều
hạn chế. - Do đó, xin đề xuất một phương pháp giảng dạy có thể áp dụng
trong giai đoạn hiện nay là Phương pháp thuyết trình kết hợp với các
phương pháp hiện đại khác. Có nhiều phương pháp hiện đại có thể kết hợp
với phương pháp thuyết trình để khắc phục những hạn chế của phương pháp thuyết
trình nhằm nâng cao chất lượng đào tạo - Một số phương pháp hiện đại được giới
thiệu để kết hợp với phương pháp thuyết trình là phương pháp làm việc nhóm,
phương pháp nêu vấn đề, phương pháp sử dụng tình huống và điều quan trọng nhất
của giáo thọ là xin hãy giảng dạy Tăng Ni sinh bằng tất cả trái tim của mình…
3. KẾT
LUẬN:
Giáo dục Phật giáo
triển khai bản chất cao đẹp tự thân tương thích với hoàn cảnh sống theo
luật hỗ tương giữa con người và xã hội với chiều hướng phát triển tốt đẹp. Do
quan điểm "sống là tranh đấu" và "đấu tranh giai cấp" với đạo
đức của học thuyết mà xã hội bị đánh mất đạo đức nhân tính. Đức Phật đã thấy
nguy cơ của những giáo lý, học thuyết chia rẽ con người, chia rẽ xã hội, nên
ngài tuyên bố - tất cả chúng sanh đều có Phật tánh, hay vạn vật đồng nhất thể
để xóa mọi ranh giới cố chấp đem lại khổ đau cho cuộc sống. Giáo dục Phật giáo
nhằm đem lại sự cảm thông, hiểu biết lẫn nhau, biết hy sinh, vị tha và tánh
buông xả, biết khơi dậy những ưu điểm cá nhân có lợi cho mình và cho mọi người.
Những tập khí huân tập trong quá khứ hay hiện kiếp, sẽ được chắt lọc và điều
hướng theo khuynh hướng từ bi, trí tuệ và nhân hậu, phát triển cái thiện, chế
ngự chuyển hóa cái ác. Cuộc sống luôn vận hành, những kiến thức thu nhập hoặc
truyền đạt bị khô cứng sẽ biến thành tác nhân nguy hại. Do vậy, ngoài việc
truyền đạt những giáo lý nền tảng, học chúng còn được đánh thức và khuyến khích
tính "tự giác" để trở thành bông hoa "tự ngộ" khai nở cá
biệt giữa biển giáo lý mênh mông của nhà Phật. Tự làm chủ thân-khẩu-ý là mục
tiêu giáo dục của phật giáo, học chúng, hành giả không tự đánh mất mình bởi
những ngoại duyên, xây dựng được những viên gạch nền tảng như thế là một thành
công của Trường Trung cấp Phật học "Thắng muôn vạn quân
không bằng tự chiến thắng mình, tự chiến thắng mình là chiến công oanh liệt
nhất". Đó là câu nói được kết tinh bởi bao vấp ngã đau
thương trước khi giác ngộ thực tế trong cuộc sống.
Với giá trị ưu
việt của nền giáo dục Phật giáo, không riêng Albert Einstein mà Herbert
George Wells (1866 - 1964) nhà cải cách xã hội, sử gia triết học người Anh đã
nhận định: "Phật giáo mang lại sự tiến bộ cho thế giới văn minh
và văn hóa chính đáng nhiều hơn bất cứ ảnh hưởng nào khác trong tiến trình
nhân loại".
HT Thích Minh Châu
cũng đã dạy:
"Sự
nghiệp giáo dục chỉ có thể thành công chừng nào sự nghiệp ấy trở thành ý thức
và trách nhiệm chung của tất cả mọi người. Thiếu mất ý thức và trách nhiệm này,
chúng ta không thể nói đến giáo dục hay xây dựng một môi trường tốt đẹp cho con
người". HT T.
Và Ngài
Thái Hư đại sư (1889 - 1947) đã nói: “Nhân
thành tức Phật thành”.
Như vậy giáo dục
Phật giáo khởi xuất lúc đức Thế Tôn truyền đạt cho năm anh em Kiều Trần Như tại
vườn Nai, từ đó, huấn giáo được triển khai cho mọi tầng lớp xã hội, giáo dục
làm người, làm trời, làm Phật qua nhiều ẩn dụ, trực chỉ, khuyến hóa, vấn đáp,
tự thuyết suốt 49 năm không ngơi nghỉ. Các thế hệ kế thừa luôn cung ứng cho xã
hội và nhân loại những bậc chân đức thánh thiện vị tha mà lấy đức từ bi làm nền
tảng và trí tuệ làm đuốc soi với trái tim cháy bỏng. Từ đó, cho ta thấy giáo
dục phật giáo không chỉ sản sanh những con người có khối óc mà lẫn trái tim.
Theo Platon, giáo dục Phật giáo là con đường đưa con người đến một viễn cảnh
của sự toàn chân, toàn thiện và toàn mỹ.
TRÍ BỬU – Tháng
9/2015.